BÀI TUYÊN TUYỀN
VỀ LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 2022
Ngày 17 tháng 11 năm 2020 Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua thông qua Luật
Bảo vệ môi trường.Bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022.Luật Bảo vệ
môi trường 2020 gồm 16 chương, 171 điều.
UBND
xã Nam Thanh thông báo cho toàn thể nhân dân trên địa bàn xã được biết nội
dung, điểm mới cơ bản của Luật Bảo vệ môi trường 2020, như sau:
NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN
CỦA LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2020
So với Luật BVMT năm 2014, Luật BVMT 2020 có những
điểm mới mang tính đột phá chính như sau:
1. Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là một
chủ thể trong công tác BVMT; tăng cường công khai thông tin, tham vấn, phát huy
vai trò của cộng đồng dân cư trong các hoạt động BVMT
- Thời gian qua, cộng đồng dân cư đã thể hiện vai trò
ngày càng quan trọng trong công tác BVMT, tiêu biểu nhất là thông qua việc hình
thành các mô hình cộng đồng tham gia BVMT hiệu quả. Sự tham gia của cộng đồng
dân cư trong việc thu thập, cung cấp thông tin về BVMT; tham gia đánh giá kết
quả của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Luật BVMT 2014 chưa quy định cộng đồng dân
cư là một chủ thể trong công tác BVMT, vì vậy chưa đẩy mạnh, phát huy được vai
trò quan trọng của cộng đồng dân cư trong công tác BVMT. Luật BVMT 2020 đã bổ
sung “cộng đồng dân cư" vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm
khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác
BVMT cũng như thực hiện một trong những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ
sức khỏe người dân, đảm bảo người dân được sống trong môi trường sạch.
Nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy được
vai trò của mình trong công tác BVMT, Luật đã bổ sung quy định thiết lập hệ
thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ
chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về BVMT, qua đó giúp cộng đồng dân cư có thể
tham gia giám sát hoạt động BVMT thông qua công nghệ thông tin, tương tác các
ứng dụng thông minh trên điện thoại di động.
- Vấn đề công khai thông tin đã được quy định xuyên
suốt, thống nhất trong Luật BVMT 2020 theo các nội dung cụ thể về BVMT, cùng
với một khoản riêng quy định việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường.
Cụ thể, Luật đã bổ sung nguyên tắc hoạt động BVMT phải được công khai, minh
bạch; quy định rõ trách nhiệm công khai thông tin liên quan đến chất lượng môi
trường không khí, chất lượng môi trường đất, kết quả quan trắc chất thải; chủ
trương của Nhà nước là khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, cung
cấp thông tin về môi trường; trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và của chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu sản xuất, kinh
doanh tập trung, cụm công nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin về
môi trường.
- Lần đầu tiên quy định việc công khai danh sách hội
đồng thẩm định báo cáo ĐTM, dành một Điều quy định công khai thông tin và sự
tham gia của cộng đồng trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Việc công
bố, công khai quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM của cơ quan
thẩm định, công khai báo cáo ĐTM sau khi được phê duyệt kết quả thẩm định của
chủ dự án, nội dung báo cáo đề xuất cấp GPMT, trừ thông tin liên quan đến bí
mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật để lấy ý kiến
của các bên liên quan cũng đã được quy định cụ thể trong Luật.
Hình thức công khai được thực hiện thông qua cổng
thông tin của cơ quan, tổ chức, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc
các hình thức khác, bảo đảm thuận tiện cho những đối tượng có liên quan tiếp
nhận thông tin; giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung và việc quản lý thông
tin về môi trường; trình tự, thủ tục, thời điểm và hình thức cung cấp, công
khai thông tin về môi trường.
- Lần đầu tiên, trách nhiệm của chủ dự án trong việc
tham vấn cộng đồng dân cư, được quy định ngay từ khi lập báo cáo ĐTM. Trong đó,
đã quy định rõ trách nhiệm thực hiện tham vấn, đối tượng tham vấn, nội dung
tham vấn chủ yếu, hình thức tham vấn trong quá trình thực hiện ĐTM; kết quả
tham vấn cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức liên quan là thông tin quan trọng
để chủ dự án nghiên cứu đưa ra giải pháp giảm thiểu tác động của dự án đối với
môi trường và hoàn thiện báo cáo ĐTM của dự án. Trong quá trình lập hồ sơ đề
nghị cấp GPMT, Luật cũng đã quy định trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham
vấn ý kiến các bên có liên quan.
2.Thay đổi phương thức quản lý môi trườngđối vớidự án
đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác
động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có
công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính
- Luật BVMT 2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong
tư duy quản lý môi trường thông qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên
quy luật tự nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế;
BVMT không chỉ là phòng ngừa, kiểm soát, xử lý chất thải; các hoạt động sản
xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát triển
tự nhiên. Đồng thời, Luật cũng đặt ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm
thực hiện mục tiêu bảo đảm người dân Việt Nam được hưởng chất lượng môi trường
ngang bằng với các nước trên thế giới và cũng, hài hòa với quy định của quốc tế
để góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT, ứng phó với
biến đổi khí hậu.
- Lần đầu tiên, Luật tiếp cận phương pháp quản lý môi
trường xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi
trường; sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự
nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các di sản thiên
nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai
đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư.
Theo đó dự án đầu tư được phân thành 04 nhóm: có nguy
cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không
có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ
thể, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù
hợp, cụ thể là:
+ Quy định chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến
môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy
định này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm
TTHC cho nhiều nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải
đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
+ Áp dụng đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý,
sàng lọc dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (đánh
giá sơ bộ tác động môi trường, ĐTM, cấp GPMT nếu phát sinh chất thải); đối với
các dự án áp dụng công nghệ tiên tiến và được cấp GPMT ngay từ giai đoạn nghiên
cứu khả thi và tổ chức hậu kiểm (thông qua thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi
vào hoạt động hoặc chỉ phải đăng ký môi trường (không phải là thủ tục hành
chính, được thực hiện bằng hình thức trực tuyến, đơn giản) tại UBND cấp xã. Bên
cạnh đó, Luật cũng cải cách mạnh mẽ TTHC thông qua việc tích hợp toàn bộ các
giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào chung 01 GPMT và bãi bỏ các giấy
phép có liên quan;
+ Xác lập lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất
thải của doanh nghiệp, Luật quy định các đối tượng xả nước thải, bụi, khí thải
lớn ra môi trường phải quan trắc định kỳ; đối tượng phải quan trắc tự động,
liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở không thuộc loại hình có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm công
nghiệp. Đối tượng, thông số, tần suất quan trắc cụ thể sẽ do Chính phủ quy định
để phù hợp với điều kiện phát triển khoa học, công nghệ và yêu cầu BVMT trong
từng thời kỳ.
3.Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung
nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không
khí, môi trường nước
- Nội dung sức khỏe môi trường tuy không có quy định
riêng nhưng đã được định chế trong toàn bộ Luật BVMT 2020, thông qua việc bảo
vệ các thành phần môi trường, qua đó bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền
mọi người được sống trong môi trường trong lành. Luật đã bổ sung nội dung quản
lý các chất ô nhiễm có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ
trách nhiệm của Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong theo
dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người
cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức khỏe môi trường với sức khỏe con người,
đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường với các loại bệnh dịch mới.
- Riêng ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang
là vấn đề bức xúc tại các lưu vực sông và đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên,
hiện nay hành lang pháp lý chưa đầy đủ để quản lý chất lượng môi trường không
khí, chất lượng môi trường nước và thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp với
tình trạng ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn.
Để giải quyết vấn đề bức xúc nêu trên, Luật đã quy
định việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, môi
trường không khí nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng
thời quy định về tiêu chí và phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định
nội dung về xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất.
Luật cũng đã quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh
trong việc xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng
môi trường không khí; đánh giá, theo dõi chất lượng môi trường không khí và
công khai thông tin; cảnh báo cho cộng đồng và triển khai các biện pháp xử lý
trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện
biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm
nghiêm trọng.
Không chỉ được quy định ở các nội dung về bảo vệ chất
lượng môi trường không khí, đất, nước, việc bảo vệ các thành phần môi trường
này còn được thể hiện tại nhiều nội dung có liên quan trong Luật như các nội
dung về quản lý nước thải, quản lý bụi, khí thải và các chất ô nhiễm khác cũng
như các nội dung về quản lý chất thải rắn (sẽ góp phần giảm tác động đến môi
trường đất, nước và không khí), quan trắc các thành phần môi trường, vv.
4. Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn;định hướng
cách thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩykinh tế tuần hoàn ở
Việt Nam
- Hiện nay tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao,
một trong các nguyên nhân là do rác thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn
trong xử lý. Để khắc phục tình trạng này, Luật BVMT 2020 đã quy định việc thu
phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân
theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần
thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu
không thực hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua
quy định rác thải sinh hoạt phải được phân làm 03 loại: (i) chất thải rắn có
khả năng tái sử dụng, tái chế; (ii) chất thải thực phẩm; (iii) chất thải rắn
sinh hoạt khác. Bộ TN&MT đã nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình và kinh nghiệm của
các quốc gia trên thế giới hiện đang thực hiện rất thành công việc thu phí xử
lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác như Nhật Bản, Hàn Quốc
và các quốc gia phát triển khác.
Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế này, Luật đã đưa ra
một số quy định như: (i) Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt
với thời hạn áp dụng chậm nhất là ngày 31/12/2024; (ii) Tại các điểm tập kết
rác thải, nếu phát hiện việc phân loại không đúng quy định thì đơn vị thu gom,
vận chuyển có quyền từ chối thu gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm
quyền để kiểm tra, xác định hộ gia đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm (thông
qua hệ thống camera giám sát); (iii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện
phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính
trị - xã hội có trách nhiệm giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của
các hộ gia đình, cá nhân; (iv) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra
việc tuân thủ, xử lý hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ngoài ra, rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình,
cá nhân khu vực nông thôn sau khi phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa
lượng chất thải thực phẩm làm phân bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp
với điều kiện nông thôn tại Việt Nam.
- Nhằm hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng
cường tái chế, tái sử dụng phế liệu trong nước để hạn chế việc nhập khẩu phế
liệu làm nguyên liệu sản xuất, ngoài quy định trách nhiệm phân loại chất thải
rắn công nghiệp phát sinh từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thành các
loại: (i) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường được tái sử dụng, tái chế
làm nguyên liệu sản xuất; (ii) nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn, quy
chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san
lấp mặt bằng; (iii) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý,
Luật lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm mở rộng của tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế/khó có khả năng tái
chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ
hoặc cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản
xuất, nhập khẩu.
5.Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước
dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ
quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương
- Việc thực hiện song song thủ tục cấp giấy phép, giấy
xác nhận về môi trường (do cơ quan quản lý nhà nước về BVMT thực hiện) với cấp
phép xả nước thải vào công trình thủy lợi (do cơ quan quản lý nhà nước về công
trình thủy lợi thực hiện) trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế,
cụ thể là: một đối tượng là nước thải của doanh nghiệp xả thải vào công trình
thủy lợi tiếp tục phải thực hiện hai TTHC có nhiều nội dung tương đồng; không
bảo đảm nguyên tắc quản lý tổng hợp về tài nguyên nước; phân tán chức năng quản
lý nhà nước đối với đối tượng là nước thải xả vào công trình thủy lợi; việc
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật
vào công trình thủy lợi do các cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi không được
kịp thời, thường xuyên, hiệu quả (do pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thủy lợi không có chế tài xử lý hành vi này).
Để khắc phục vấn đề này, Luật BVMT 2020 đã bãi bỏ thủ
tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy
lợi mà lồng ghép nội dung này trong GPMT nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm
quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước; đồng thời giảm TTHC mạnh
mẽ cho doanh nghiệp. Song song với chế định này, Luật cũng đã bổ sung trách
nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công
trình thủy lợi ngay từ giai đoạn ĐTM cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước
thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Luật đã phân cấp mạnh mẽ cho địa phương thông qua chế
định giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có liên quan thẩm định báo
cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết
định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành (quy định hiện
hành phân cấp các Bộ, ngành đều có thể thẩm định báo cáo ĐTM) đồng thời quy
định các bộ có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trong quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả. Quy định này sẽ bảo đảm quản
lý thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp
phép sau này và phù hợp với xu hướng phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp
luật hiện hành.
6.Lần đầu chế định cụ thể về kiểm toán môi trường nhằm
tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp
- Tiếp thu kinh nghiệm thành công của quốc tế về kiểm
toán môi trường được áp dụng đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh
giá mức độ hiệu quả sử dụng tiết kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát
ô nhiễm và BVMT, Luật BVMT 2020 đã bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường
nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán.
Mục đích của hoạt động này nhằm tăng cường năng lực
quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong
quản lý môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được
hiệu quả hơn.
- Luật cũng đã bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước
thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán
nhà nước và pháp luật có liên quan.
7. Cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, thúc đẩy
phát triển thị trường các-bon trong nước
- Chương IV Luật BVMT 2014 đã quy định về ứng phó biến
đổi khí hậu (BĐKH). Tuy nhiên, một số nội dung đang chồng lấn với các điều
khoản trong các chương khác của Luật (nghiên cứu khoa học, quản lý chất thải,
…), chưa cụ thể nội dung thích ứng BĐKH, do vậy, Luật BVMT 2020 đã bổ sung các
quy định về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng
ô-zôn, trong đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ,
ngành liên quan và địa phương về thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống
chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
- Đặc biệt, Luật đã lần đầu tiên chế định về tổ chức và
phát triển thị trường các-bon như là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà
kính trong nước, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH. Trong đó, quy định
rõ đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao
đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước; căn cứ xác định hạn ngạch phát
thải khí nhà kính; trách nhiệm của các cơ quan quản lý, tổ chức liên trong
trong việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính; lộ trình và thời điểm
triển khai thị trường các-bon trong nước để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.
8.Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên
nhiên phù hợp với pháp luật quốc tế về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu của quá
trình hội nhập quốc tế
Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên
thế giới (Công ước di sản thế giới), di sản thế giới được chia làm 02 loại bao
gồm: di sản thiên nhiên và di sản văn hóa có các đặc điểm, tiêu chí hoàn toàn
khác nhau (tiêu chí của di sản thiên nhiên gắn với các yếu tố của tự nhiên,
trong đó tiêu chí của di sản văn hóa gắn với yếu tố con người). Việt Nam đã
tham gia Công ước này từ năm 1987, tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam
về quản lý di sản thiên nhiên chưa nội luật hóa đầy đủ và tương thích với nội
dung của Công ước. Các quy định về đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam
đang được quy định tản mạn trong một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng
sinh học (khu bảo tồn đất ngập nước), Luật Lâm nghiệp (khu bảo tồn là rừng đặc
dụng), Luật Thủy sản (khu bảo tồn biển), thậm chí còn được quy định trong pháp
luật về di sản văn hóa (Luật Di sản văn hóa quy định di sản văn hóa còn bao gồm
cả danh lam thắng cảnh là một đối tượng của di sản thiên nhiên), do đó, chưa
bao quát được toàn bộ các đối tượng là di sản thiên nhiên cần bảo vệ (như công
viên địa chất toàn cầu, khu dự trữ sinh quyển, khu Ramsar –khu đất ngập nước có
tầm quan trọng quốc tế, vườn di sản ASEAN), đồng thời thiếu quy định về việc
xác lập cũng như chế độ quản lý các di sản thiên nhiên cấp quốc tế này. Điều
này tạo ra rào cản trong quá trình hội nhập và thực hiện Công ước di sản thế
giới mà Việt Nam đã tham gia cũng như phát sinh nhiều vấn đề chưa được xử lý
trong thực tiễn quản lý hiện nay.
Để khắc phục các bất cập này, Luật BVMT 2020 đã đưa ra
các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí
của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay; trong đó đối với các đối
tượng là di sản thiên nhiên đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp,
thủy sản, đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy
định này để tránh xáo trộn, chồng chéo. Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh
giá, quản lý và BVMT di sản thiên nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di
sản thiên nhiên ở nước ta.
9. Tạo lập chính sáchphát triển các mô hình tăng
trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển
nguồn vốn tự nhiên
Luật BVMT 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ
kinh tế và nguồn lực cho BVMT. Trong đó, đã bổ sung các chính sách về phát
triển, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; ưu tiên
thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước; thúc
đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; đặc biệt là thúc đẩy
kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, bổ sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu
xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho BVMT.